Những bước phát triển của phong trào cách mạng tỉnh Bình Phước trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước tiến tới ngày giải phóng tỉnh (23/3/1975)
Phong trào đấu tranh của Đảng bộ và Nhân dân Bình Phước trong kháng chiến chống mỹ cứu nước (1954 – 1975)
Giữ gìn và phát triển lực lượng cách mạng, đấu tranh chống địch gom dân lập ấp chiến lược (1954-1965)
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, đế quốc Mỹ thực hiện âm mưu thôn tính Việt Nam nhằm khống chế vùng Đông Nam Á. Mỹ - Diệm trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, âm mưu chia cắt lâu dài hai miền Nam - Bắc, thôn tính miền Nam, biến miền Nam thành căn cứ quân sự và thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Với chính sách “tố cộng”, “diệt cộng” đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật với Luật 10/1959... địch không từ một thủ đoạn tàn bạo, dã man nào để đánh phá cách mạng miền Nam, thẳng tay trả thù, sát hại Nhân dân yêu nước và những người kháng chiến cũ. Đây là thời kỳ đen tối của cách mạng miền Nam, phong trào cách mạng bị tổn thất nặng nề.
Trong những năm tháng đó, mặc dù tổ chức đảng bị địch đánh phá ác liệt, nhưng bằng phương pháp hoạt động vừa bí mật, vừa công khai, hệ thống các cơ sở đảng vẫn được duy trì và tiếp tục lãnh đạo phong trào đấu tranh của Nhân dân. Địa bàn Hớn Quản (tỉnh Bình Long) là một trong những địa phương tiếp thu nhạy bén “Đề cương cách mạng miền Nam” và Nghị quyết của Xứ ủy, sớm có tổ chức và hoạt động vũ trang hỗ trợ cho phong trào quần chúng.
Thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng (khóa II, Đảng bộ và Nhân dân Bình Long và Phước Long, từ thế giữ gìn lực lượng, đấu tranh chính trị đơn thuần chuyển sang thế tiến công, đấu tranh chính trị, vũ trang song song kết hợp với phương châm 3 mũi giáp công (quân sự, chính trị, binh vận). Sự hình thành Đảng bộ Bình Long và Phước Long cùng với hệ thống cấp ủy ở cơ sở và việc khai thông đoạn cuối hành lang chiến lược Bắc - Nam trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn này có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng của địa phương hai tỉnh.
Với truyền thống yêu nước, đoàn kết, Đảng bộ Bình Long và Phước Long lãnh đạo Nhân dân hai tỉnh đã chiến đấu quyết liệt và liên tục trên mặt trận chống phá chương trình bình định, càn quét gom dân, lập ấp chiến lược của địch, tạo địa bàn đứng chân cho quân chủ lực, phục vụ cho yêu cầu căn cứ chiến lược và các nhiệm vụ chính trị của Trung ương Cục giao cho, xây dựng vùng bàn đạp tấn công Sài Gòn, sào huyệt cuối cùng của đế quốc Mỹ và tay sai.
Nổi bật là chiến dịch Phước Long - Bình Long 1965, mà trọng điểm là Phước Long - Đồng Xoài. Sau 64 ngày đêm chiến đấu quyết liệt, bộ đội chủ lực và địa phương đã phá hàng loạt ấp chiến lược, dinh điền của địch, giải phóng trên 5 vạn dân. Chiến thắng Phước Long - Đồng Xoài cùng với chiến thắng Bình Giã, Ba Gia và nhiều nơi khác trên chiến trường miền Nam, đã góp phần làm thất bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - Ngụy, buộc đế quốc Mỹ phải bị động chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa quân Mỹ và quân chư hầu vào tham chiến miền Nam (Việt Nam).
Đảng bộ và Nhân dân Bình Phước vượt qua khó khăn, đẩy mạnh tiến công địch, giải phóng quê hương (1965 -1975)
Sau hơn ba năm đương đầu với Mỹ - Ngụy trong “chiến tranh cục bộ” đầy ác liệt, gian khổ và hy sinh, Đảng bộ và Nhân dân hai tỉnh Bình Long và Phước Long luôn giữ vững niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, ra sức xây dựng lực lượng cả về quân sự và chính trị, giữ vững thế tiến công và liên tục tiến công, cùng quân và dân Đông Nam bộ và cả miền Nam, góp phần bẻ gãy hai gọng kềm “tìm diệt và bình định”, đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 – 1966 và 1966 - 1967 của Mỹ - Ngụy. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương và của Đảng bộ, quân và dân hai tỉnh Bình Long và Phước Long đã cùng lực lượng của Khu 10 và của Miền, tấn công vào Tiểu khu Bình Long, Phước Long và các chi khu khác, phát động quần chúng nổi dậy, góp phần cùng quân và dân miền Nam thực hiện cuộc tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đồng loạt tấn công vào sào huyệt và căn cứ của Mỹ - Ngụy khắp miền nam, giành thắng lợi vang dội.
Tuy nhiên cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa kéo dài không đạt được mục tiêu chiến lược của Đảng đề ra từ đầu, lực lượng vũ trang, chính trị của ta có tổn thất lớn, nhưng thắng lợi của ta đã gây một tác động chính trị rất lớn trên thế giới và ngay chính bản thân nước Mỹ, góp phần làm thất bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải tính đến chuyện “xuống thang chiến tranh” và chịu ngồi vào bàn đàm phán tại Paris (Pháp). Sau năm Mậu Thân 1968, Mỹ - Ngụy chuyển dần chiến lược “chiến tranh cục bộ” sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” với kế hoạch “quét và giữ” kết hợp các chương trình bình định cấp tốc, bình định đặc biệt... Ở hai tỉnh Bình Long và Phước Long, chúng tăng cường càn quét đánh phá sâu vào vùng căn cứ, vùng giải phóng, ráo riết gom dân lập ấp chiến lược bằng nhiều phương tiện và hành động cực kỳ tàn bạo, kể cả B52 và chất độc màu da cam cùng với triệt để bao vây kinh tế.
Có thể nói, năm 1969 và những tháng đầu năm 1970 là thời kỳ cách mạng miền Nam trải qua ác liệt và khó khăn gay gắt nhất, nhưng đây cũng là thời kỳ quân và dân hai tỉnh Bình Long và Phước Long tỏ rõ tinh thần cách mạng, anh dũng kiên cường vượt qua mọi khó khăn thử thách, bám trụ chiến trường, tiếp tục thế tiến công đánh địch, duy trì cơ sở, khôi phục phong trào, từng bước tạo thế, tạo lực và phát triển phong trào đấu tranh cách mạng. Cùng với quả đấm chủ lực, quân và dân Bình Phước đã tham gia chiến dịch Nguyễn Huệ hè 1972 giải phóng hoàn toàn các huyện Lộc Ninh, Bù Đốp, Bù Gia Mập và từng mảng ấp chiến lược, mở rộng vùng căn cứ nối liền biên giới Campuchia thành hậu phương trực tiếp của chiến trường B2, góp phần buộc Mỹ phải chịu thất bại trên bàn Hội nghị. Cuối năm 1972, Trung ương Cục quyết định thành lập tỉnh Bình Phước trên cơ sở xác nhập hai tỉnh Bình Long và Phước Long.
Hiệp định Paris được ký kết ngày 27/01/1973, Mỹ chịu rút hết quân viễn chinh và chư hầu, chấm dứt dính líu vào cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam. Lộc Ninh trở thành thủ phủ của Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam. Bình Phước được vinh dự thay mặt Nhân dân miền Nam và cả nước đón những người con chiến thắng từ các nhà tù Mỹ - Ngụy trở về trong niềm thương yêu, xúc động và khâm phục.
Trong chiến cuộc Đông Xuân 1974 - 1975, được sự chi viện của Trung ương và của Miền, quân và dân Bình Phước đã tấn công giải phóng hoàn toàn huyện Bù Đăng ngày 14/12/1974, ngày 26/12/1974 tấn công giải phóng Đồng Xoài, ngày 31/12/1974 tấn công giải phóng hoàn toàn chi khu quận lỵ Phước Bình và đến ngày 06/01/1975, tấn công giải phóng tiểu khu - tỉnh lỵ Phước Long. Chiến thắng Phước Long có ý nghĩa chiến lược quan trọng, lần đầu tiên một tỉnh của miền Nam được hoàn toàn giải phóng, là một đòn trinh sát chiến lược, tạo tiền đề cho Bộ Chính trị, Trung ương có quyết định và hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam trong thời gian sớm. Phát huy thắng lợi ta tiếp tục củng cố vùng giải phóng, đồng thời bao vây, tiêu diệt cụm cứ điểm An Lộc (Bình Long). Nhận thấy không có khả năng tiếp cứu cho nhau và biết nguy cơ bị tiêu diệt, ngày 23/3/1975, địch rút chạy về Chơn Thành, trung tâm tỉnh lỵ An Lộc, tỉnh Bình Long được giải phóng. Ngày 02/4/1975, huyện Chơn Thành là địa phương cuối cùng của tỉnh Bình Long được giải phóng, góp phần cùng quân và dân các tỉnh miền Nam và các binh đoàn chủ lực tiến về giải phóng Sài Gòn vào ngày 30/4/1975, hoàn thành trọn vẹn sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Ngày 15/4/2015, Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị lấy ý kiến của các nhân chứng lịch sử, các nhà khoa học và các đồng chí nguyên là lãnh đạo tỉnh để xác định ngày giải phóng tỉnh Bình Phước. Từ tất cả các ý kiến tại Hội nghị, tập thể Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã nghiên cứu, thảo luận nghiêm túc với tinh thần khách quan, khoa học, trách nhiệm với lịch sử. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã đi đến thống nhất chọn ngày 23/3/1975 - ngày giải phóng quận An Lộc là trung tâm hành chính của tỉnh Bình Long làm ngày GIẢI PHÓNG TỈNH BÌNH PHƯỚC.
Nguyên nhân thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bình Phước.
Thứ nhất: Nhờ vào đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam; nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo tài giỏi của Trung ương Đảng, Xứ ủy Nam bộ, Trung ương Cục miền Nam; sự chi viện giúp đỡ to lớn từ hậu phương lớn miền Bắc và tình đoàn kết chiến đấu của Đảng bộ, quân, dân các tỉnh Miền Đông Nam bộ.
Thứ hai: Nhân dân các dân tộc trong tỉnh có lòng trung thành vô hạn, quyết tâm cách mạng cao, có năng lực sáng tạo phong phú, tinh thần phấn đấu hy sinh bền bỉ và ý chí tự lực, tự cường. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, mọi tầng lớp nhân dân không phân biệt Kinh, đồng bào dân tộc, lương, giáo đoàn kết thành một khối, tất cả đều tham gia kháng chiến, vân dụng linh hoạt mọi hình thức và phương pháp đấu tranh, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ.
Thứ ba: Qua rèn luyện thử thách, Đảng bộ tỉnh Bình Phước không ngừng được củng cố, xây dựng và trưởng thành, trở thành hạt nhân lãnh đạo, là bộ tham mưu có kinh nghiệm của phong trào cách mạng, được Nhân dân tin yêu, gắn bó và đùm bọc.
Thứ tư: Lực lượng vũ trang Bình Phước trong kháng chiến bao gồm ba thứ quân từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà chiến đấu, không ngừng được củng cố và trưởng thành, phát huy bản chất tốt đẹp của quân đội cách mạng và truyền thống “Bộ đội cụ Hồ”, trở thành lực lượng nòng cốt của phong trào cách mạng địa phương, góp phần cùng Nhân dân làm nên những chiến công vẻ vang.
Những bài Học Kinh nghiệm
Thứ nhất là: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu đảm bảo thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai là: Nhân dân và các lực lượng vũ trang tỉnh Bình Phước yêu nước, một lòng đi theo Đảng, đi theo Bác Hồ, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, bền bỉ, lao động quên mình vì độc lâp tự do của Tổ quốc, vì CNXH và vì quyền con người.
Thứ ba là: Nắm chắc và vận dụng sáng tạo phương châm đấu tranh hai chân ba mũi giáp công, ba vùng chiến lược, xây dựng các đội, mũi công tác bám sát địa bàn, luồn sâu vào các ấp chiến lược, thị trấn, thị xã, phát động và tổ chức quần chúng hành động cách mạng. Xây dựng được lực lượng vũ trang ba thứ quân, công tác binh vận được quán triệt từ tỉnh ủy đến tận người dân.
Thứ tư là: Tổ chức Đảng luôn được củng cố và phát triển. Các cấp ủy luôn thể hiện sự đoàn kết nhất trí cao trong mọi chủ trương, sâu sát cơ sở, nhạy bén được tình hình, dân chủ bàn bạc công việc, kịp thời giải quyết những vấn đề mới nảy sinh vừa đảm bảo nguyên tắc, vừa phù hợp với tình hình địa phương.
Thứ năm là: Vấn đề xây dựng vùng căn cứ cách mạng phải được thường xuyên quan tâm đúng mức, xuyên suốt trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Thứ sáu là: Sự chi viện của Trung ương, Trung ương Cục miền Nam và các chiến trường bạn làm tăng thêm sức mạnh vật chất, tinh thần và nâng cao trách nhiệm của Nhân dân và Đảng bộ Bình Phước trước phong trào cách mạng cả nước.