Nguồn gốc Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây của đồng bào dân tộc Khmer

Thứ năm - 13/04/2023 22:01 2.318 0
Chôl Chnăm Thmây (hoặc Chaul Chnam Thmay) là lễ hội mừng năm mới theo lịch cổ truyền của dân tộc Khmer. “Chôl” nghĩa là “Vào” và “Chnăm Thmay” là “Năm Mới”. Hằng năm, lễ hội thường diễn ra vào khoảng giữa tháng Tư Dương lịch, bao gồm nhiều nghi lễ truyền thống và trò chơi dân gian.
Nguồn gốc Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây của đồng bào dân tộc Khmer
Chôl Chnăm Thmây là lễ hội lớn nhất trong năm của người dân Campuchia và của hơn 1,3 triệu đồng bào dân tộc Khmer Việt Nam. Lễ hội có nhiều nét tương đồng với Tết Bunpimay của Lào, Tết Songkran của Thái Lan, hay Tết Thingyan của Myanmar.

Nguồn gốc của lễ hội Chôl Chnăm Thmây được lý giải bằng truyền thuyết liên quan đến câu chuyện chuyển giao tôn giáo từ Bà La Môn giáo sang Phật giáo, xoay quanh cuộc đấu trí giữa Đại Phạm Thiên (Kabul Maha Prum) và cậu bé thông minh Thom Ma Bal, một tiền kiếp của đức Phật.

Chuyện kể rằng, ngày xưa, có một cậu bé tên là Thom Ma Bal rất thông minh, 7 tuổi đã biết đem sự hiểu biết của mình truyền bá cho mọi người. Dân chúng rất thán phục và thích nghe cậu thuyết giảng. Tiếng đồn về tài trí của Thommabal chẳng mấy chốc vang đến thượng giới. Các vị thần cũng xuống trần gian xin nghe Thom Ma Bal thuyết giảng. Do vậy, những buổi thuyết giảng của thần Kabul Maha Prum trên thượng giới ngày càng vắng vẻ.

Thần Kabul Maha Prum vốn rất có uy trên thượng giới, nay nghe ở trần gian có kẻ hơn mình nên rất tức giận. Thần cho gọi hết các vị thần tiên trở về, không cho xuống trần gian nghe thuyết giảng. Đồng thời tìm cách hãm hại Thom Ma Bal. Thần đặt ra ba câu hỏi và bắt Thom Ma Bal trả lời trong vòng 7 ngày. Thần giao ước, nếu cậu bé không trả lời được thì cậu phải dâng mạng sống của mình cho Thần. Ngược lại, Thần sẽ tự tay chặt đầu mình nếu Thom Ma Bal trả lời chuẩn xác ba câu hỏi.

Thom Ma Bal suy nghĩ suốt ngày đêm mà vẫn không tìm được lời giải đáp. Đến ngày thứ sáu, chàng đi lang thang mệt mỏi, thất vọng, ngồi nghỉ dưới cây thốt nốt, tình cờ nghe được lời giải từ hai con chim đại bàng.

Đúng hẹn, thần Kabul Maha Prum tay cầm gươm vàng, đáp xuống gặp Thom Ma Bal. Chàng trả lời đúng câu hỏi của thần. Thua cuộc, thần tự cắt đầu mình, tự sát.

Trước khi cắt, thần căn dặn những người con gái của mình hãy để đầu của ông trên một khay vàng và giữ nó trong một tòa tháp trên đỉnh Prassume, bởi, nếu để đầu ông rơi xuống biển, biển sẽ cạn, nếu để đầu của ông trên không thì trời không mưa, và nếu để đầu ông xuống đất, thì đất sẽ khô cằn, cỏ cây không mọc được.

Thần Kabul Maha Prum cũng không quên khuyên các con gái của mình hằng năm thay phiên nhau xuống trần gian để bảo vệ người dân hạ giới và phù hộ cho một năm bình an, mùa màng bội thu.

Từ đó về sau, hằng năm, cứ đến ngày thần Kabul Maha Prum cắt đầu, bảy tiên nữ con gái thần thay phiên nhau xuống trần gian, mang theo một mâm đầu của ông xuống núi Prassume rồi quay quanh chân núi ba vòng theo hướng mặt trời mọc.

Người Khmer coi ngày đó là ngày đầu tiên của năm mới.

Đối với người Khmer, tháng 4 là điểm giao thời giữa mùa nắng và mùa mưa. Tại thời điểm này, cỏ cây trở lại tươi tốt và thiên nhiên trỗi dậy sức sống. Sự thay đổi, bừng lên của thiên nhiên đã được người Khmer quan niệm như sự khởi đầu của một năm mới. Việc tổ chức Tết Chôl Chnăm Thmây xuất phát từ mục đích cầu xin mùa khô qua mau để có thể bắt đầu mùa vụ mới.

Do mang ý nghĩa chào đón mùa mưa và mùa màng mới và là lễ hội lớn nhất trong năm, nên ngày xưa Tết Chôl Chnăm Thmây kéo dài từ 10-15 ngày. Những thập niên gần đây, trong xu thế đơn giản hóa lễ hội nói chung, lễ hội này chỉ còn 3 ngày (chưa kể công việc chuẩn bị trong nhiều ngày trước đó).  

Ba ngày này được tính theo lịch của người Khmer Campuchia. Người Khmer do ảnh hưởng của khoa thiên văn truyền thụ từ Ấn Độ, họ tính đầu năm bằng hai lối vào: “Chôl” tính theo chuyển động của mặt trăng và đánh dấu việc thay đổi bằng biểu tượng của 12 con thú tượng trưng của con giáp trong một kỳ. “Chnăm” tính theo chuyển động của mặt trời. “Chôl” được tính vào tháng 4 dương lịch, còn “Chnăm” thì thay đổi theo trăng tròn hay khuyết.

Thời khắc Giao thừa
Thời khắc Giao thừa trong quan niệm của người Khmer không phải là 0 giờ 0 phút như Tết Dương lịch hay Tết Nguyên Đán mà căn cứ vào thời khắc tiên nữ (một trong 7 nàng tiên con của Thần Kabul Maha Prum) giáng trần. Vị tiên nữ này được cử xuống trần gian thay thế cho vị thần năm cũ để chăm lo cho người dân trong năm đó.  

Để biết thời khắc giao thừa, A Cha trong các ngôi chùa sẽ làm lễ và thông báo cho người dân. A Cha là người từng tu hành, có địa vị cao trong xã hội và luôn được người dân Khmer kính trọng.

Vào thời khắc Giao thừa, các bàn thờ được đặt ở những nơi trang trọng nhất để đón các vị thần linh và ông bà tổ tiên. Trên bàn thờ, người Khmer thường bày mâm lễ vật gồm năm ngọn nến, năm nén hương, năm chén cốm, một cặp dừa, hai ly nước, hoa tươi và 11 loại trái cây để nghênh đón các vị thần linh và ông bà tổ tiên. Các thành viên trong gia đình ngồi hành lễ nghiêm trang trước bàn thờ, khấn vái, mong và tin rằng sẽ được ban phước lành trong năm mới.

Ngày đầu tiên (Ngày Chôl Sangkran Thmây)
Hoạt động quan trọng nhất của ngày đầu năm mới đối với người Khmer là Lễ rước Đại lịch (Maha Sangkran). Mọi người tắm gội, mặc quần áo đẹp, đội cỗ lên chùa. Lễ rước diễn ra vào giờ tốt đã được chọn sẵn, bất kể sáng hay chiều.

Đại lịch được đặt trong khay sơn son thếp vàng đưa lên kiệu khiêng đi vòng quanh chính điện 3 vòng trang trọng, vừa là lễ chào mừng năm mới vừa chờ điềm báo năm mới tốt hay xấu, tùy vào cuộc rước có hoàn thiện hay không, rồi mới vào chính điện làm lễ. Sau đó, tất cả vào lễ Phật, tụng kinh chúc mừng năm mới. 

Khi cử hành nghi thức rước đại lịch, một số chùa còn tổ chức dàn nhạc ngũ âm hoặc nhóm múa Chhay-dăm với người dẫn đầu mang mặt nạ, tay cầm gậy múa mở đường… Kế tiếp là vị Achar đội mâm lễ vật trên đầu. Một người đi phía sau cầm lọng màu vàng che cho người đội mâm. Sau cùng là đoàn người tay cầm nhang, đèn đốt sẵn. Già trẻ tuần tự xếp hàng hai, hàng ba xuất phát từ hướng Đông, theo chiều kim đồng hồ, đi vòng quanh chánh điện, thể hiện sự cung kính đối với đức Phật. Khi đi đủ ba vòng, đoàn rước tiến vào chánh điện. Vị sư cả tiếp nhận quyển Đại lịch, đặt lên bệ thờ, tụng kinh đón vị thần cai quản năm mới và tụng kinh cầu an. Những gia đình không tham gia rước Đại lịch tại chùa cũng có thể thực hiện nghi thức đón năm mới tại nhà…

Lễ rước đại lịch của người Khmer có ý nghĩa tương tự lễ đón giao thừa trong Tết Nguyên đán của người Việt và nhiều dân tộc khác, nhằm tiễn những điều xui xẻo của năm cũ, gửi gắm ước vọng vào những điều mới mẻ, may mắn, tốt lành trong năm mới.

Ngày thứ 2 (ngày Wonbơf)
Ngày thứ hai diễn ra lễ dâng cơm và đắp núi cát.

Lễ dâng cơm ngày thường, các vị sư, sãi mang bình bát đi vào các phum sóc người Khmer khất thực vào các buổi sáng. Nhưng với Tết Chôl Chnăm Thmây thì người Khmer trong phum sóc mang cơm đến tận chùa dâng cho các vị sư sãi, nghe tụng niệm kinh Phật.

Mở đầu buổi lễ dâng cơm là lời tụng niệm, thuyết pháp của các vị Acha, sau đó các vị sư tụng kinh, làm lễ tạ ơn những người đã làm ra vật thực và cũng để đưa vật thực đến các linh hồn những người thân quá cố. Sau đó, các vị sư thưởng thức vật thực và tụng kinh chúc phúc cho thí chủ và cầu siêu cho những linh hồn đã khuất. Đó là một phong tục truyền thống tốt đẹp của người Khmer được duy trì từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Lễ đắp núi cát: Lễ này được tổ chức vào chiều ngày thứ hai của tết Chôl Chnăm Thmây, nhằm thể hiện công sức, lòng thành của người tham gia đắp núi cát. Mỗi hạt cát đắp lên thành núi sẽ giải thoát được một kẻ có tội ở thế gian. Vì thế, người Khmer rất hăng hái đắp núi cát, để mong Đức Phật ban phước lành.

Ngày nay, việc đắp núi cát chỉ được tổ chức trong những năm chùa đang xây dựng, cát do người dân mang đến sẽ được dùng vào việc xây dựng chùa. Một số chùa thay núi cát bằng đắp núi lúa, núi gạo. Số lúa và gạo được dùng vào việc cung cấp lương thực cho các vị sư sãi hoặc hỗ trợ cho dân nghèo.

Ngày thứ 3 (Ngày Lơng Săk)
Vào ngày thứ ba của Tết Chôl Chnăm Thmây, bà con Khmer tiến hành Lễ tắm tượng Phật và Lễ cầu siêu.

Lễ tắm tượng Phật thường diễn ra vào buổi chiều. Các vị Acha đặt tượng Phật vào thau lớn có hoa tươi, nước tinh khiết ướp nước hoa. Vị Acha đọc kinh, các vị sư sãi dùng cành hoa nhúng vào nước thơm tắm tượng Phật. Sau khi làm lễ tắm tượng Phật ở chùa, trở về nhà, người Khmer tiếp tục làm lễ tắm tượng Phật ở gia đình.

Nghi lễ nhằm mục đích bày tỏ lòng biết ơn đối với Đức Phật, rửa sạch những điều không may của năm cũ và đón những điều may mắn trong năm mới.

Lễ cầu siêu: Sau khi kết thúc lễ tắm tượng Phật, tắm sư sãi, mọi người cùng các vị Acha tập trung tại khu vực tháp đựng hài cốt để cầu siêu cho linh hồn các nhà sư viên tịch và những người thân của mình được siêu thoát.

Người Khmer đặt một khay lễ vật trên một chiếc chiếu trước tháp, thắp hương và nghe các nhà sư tụng kinh. Trong khi đọc kinh, các nhà sư vẩy nước thơm lên các tín đồ và xung quanh tháp để lan tỏa hạnh phúc cho họ và gia đình.

Lễ cầu siêu là nghi lễ cuối cùng kết thúc Tết Chôl Chnăm Thmây của người Khmer.

Trong ba ngày Tết Chôl Chnăm Thmây, ngoài các nghi thức Phật giáo, đồng bào Khmer Việt Nam và người dân Campuchia cũng hân hoan tổ chức rất nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật và các trò chơi dân gian.
Sau đây là một số hình ảnh:








 

Nguồn tin: BBT

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây